Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2015

Làm sao để xây dựng những công ty luật Việt Nam tầm cỡ trên sân nhà?

Làm sao để xây dựng những công ty luật Việt Nam tầm cỡ trên sân nhà?
Luật sư Nguyễn Hữu Phước - Phuoc & Partners

V
iệt Nam đã là thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO) từ tháng 01/2007, thành viên của Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và sẽ có thể trở thành thành viên của Hiệp định xuyên Thái Bình Dương (the Trans-Pacific Partnership (TPP)) từ đầu năm 2016. Từ những cột mốc đó, việc hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế Việt Nam tầm cỡ khu vực để cạnh tranh bình đẳng với các tập đoàn kinh tế nước ngoài ngay trên sân nhà là thật sự cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết và dịch vụ pháp lý cũng không nằm ngoài sân chơi này. Từ năm 1987 đến nay, sau gần 30 năm phát triển nghề luật sư với gần 9.000 ngàn luật sư được cấp phép hành nghề trong cả nước, đã đến lúc chúng ta phải nghĩ đến việc thành lập cho được các công ty luật Việt Nam (“CTLVN”) quy tụ đội ngũ vài trăm luật sư giỏi, giàu kinh nghiệm và đa dạng về lĩnh vực hành nghề luật, cung cấp đầy đủ các dịch vụ tư vấn luật chuyên nghiệp cho khách hàng trong và ngoài nước.

Thật vậy, nếu nhìn ra thế giới, chúng ta sẽ dễ dàng nhìn thấy tại các nước phát triển có những công ty luật quốc tế rất lớn. Những công ty luật này hoạt động như một tập đoàn dịch vụ đa quốc gia thực thụ, họ thuê mướn vài ngàn luật sư làm việc cùng với một đội ngũ nhân viên hỗ trợ hùng hậu không kém. Trụ sở của các công ty luật này thuộc quyền sở hữu của chính họ hoặc được thuê lại, tọa lạc trong những cao ốc văn phòng sang trọng và hiện đại ở những khu kinh doanh, thương mại sầm uất. Phạm vi hoạt động của họ không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia nơi họ đặt trụ sở chính mà còn ở hàng trăm chi nhánh, công ty con tại các quốc gia khác trên thế giới. Có thể nói, nơi nào có công việc kinh doanh, nơi đó luôn có sự hiện diện của các công ty luật đa quốc gia này. Hãy thử vào trang web của một vài công ty luật đa quốc gia nổi tiếng trên thế giới đã mở chi nhánh/công ty con tại Việt Nam để tham khảo thêm: www.freshfields.com, www.duanemorris.com, www.bakermckenzie.com, www.allens.com.au.

Trước khi bàn về việc làm thế nào để phát triển một số CTLVN tầm cỡ khu vực trong thời điểm hiện nay khi Việt Nam đã là thành viên WTO gần 10 năm và đang hội nhập nhanh vào nền kinh tế thế giới, chúng ta thử nhìn lại chặng đường hình thành và phát triển của nghề luật sư Việt Nam trong những năm qua và tìm hiểu lý do tại sao Việt Nam vẫn chưa thể xây dựng được những CTLVN tầm cỡ khu vực theo yêu cầu của sự phát triển thị trường.

Chặng đường hình thành và phát triển nghề luật sư Việt Nam

Pháp lệnh Tổ chức Luật sư
Sau khi thống nhất đất nước đến cuối năm 1987, nghề luật sư trên thực tế chưa được chính quyền thừa nhận. Với việc ban hành Pháp lệnh Tổ chức Luật sư ngày 18/12/1987 (“Pháp lệnh Tổ chức Luật sư”), “nghề luật sư” đã chính thức được công nhận nhưng Pháp lệnh Tổ chức Luật sư không cho phép các luật sư hành nghề độc lập mà phải thông qua tổ chức nghề nghiệp là đoàn luật sư, được thành lập tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Vì thế, mãi đến tháng 9/2001 cả nước chỉ mới có khoảng 2.000 luật sư trên tổng dân số gần 80 triệu người (khoảng 1 luật sư/40.000 người), trong số đó chỉ có khoảng vài trăm luật sư là hành nghề thực thụ, số còn lại là các cán bộ về hưu, công chức kiêm nhiệm. Trong thời gian này, việc hành nghề luật sư thường là theo tính chất cá nhân, độc lập và các luật sư thường là chỉ tham gia tranh tụng tại các tòa án trong nước.

Pháp lệnh Luật sư
Pháp lệnh Luật sư (“Pháp lệnh Luật sư”) ban hành ngày 25/07/2001 và có hiệu lực ngày 01/10/2001 đã thổi một luồng gió mới vào “nghề luật sư” bằng hai thay đổi cơ bản là: (1) hình thành các tổ chức hành nghề luật sư chuyên nghiệp (công ty luật hợp danh, văn phòng luật sư); và (2) không chấp nhận sự kiêm nhiệm trong hoạt động hành nghề luật sư. Bên cạnh đó, một số những thay đổi pháp lý khác cũng đã có tác động tích cực đến con đường chuyên nghiệp hoá nghề luật sư ví dụ như không chấp nhận trình độ "tương đương đại học luật", cũng như việc mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ cho luật sư (được tham gia tố tụng trọng tài; đại diện theo ủy quyền, v.v). Tuy nhiên, do Pháp lệnh Luật sư chưa quy định rõ ràng khái niệm “dịch vụ pháp lý” nên vô hình chung “đẻ” ra một thực tế là có "hai luật chơi" (Luật Doanh nghiệp và Pháp lệnh Luật sư) trong một thị trường dịch vụ pháp lý. Hơn nữa, việc phân biệt vai trò giữa luật sư trong công ty luật hợp danh (chỉ được phép thực hiện dịch vụ tư vấn luật) với luật sư trong các văn phòng luật sư (được cung cấp cả dịch vụ tư vấn và tham gia tranh tụng) đã khiến hệ thống hành nghề luật sư của Việt Nam phát triển không bình thường theo như quy luật chung trên thê giới. Do đó, sau 5 năm thực thi Pháp lệnh Luật sư cho đến khi Luật Luật sư có hiệu lực từ ngày 01/01/2007, số lượng luật sư chỉ mới tăng từ 2.000 lên hơn 4.000 luật sư với hơn 800 tổ chức hành nghề luật sư (bao gồm chi nhánh và văn phòng luật sư) đi vào hoạt động, ban đầu hình thành một mạng lưới mới trong hệ thống thực thi pháp luật ở Việt Nam trong khi chưa có sự tăng trưởng đáng kể về chất, thậm chí chỉ hoạt động mang tính đơn lẻ và manh mún. Mỗi tổ chức hành nghề luật sư chỉ đăng ký vài luật sư, trong đó, các luật sư lại hành nghề độc lập, chỉ chia sẻ với nhau chi phí hoạt động cơ bản chung của tổ chức hành nghề luật sư. Các dịch vụ luật sư chủ yếu là vẫn tham gia tranh tụng tại tòa án nhân dân các cấp và “chạy dịch vụ”. Hơn thế nữa, trong tổng số 4.000 luật sư đó, chỉ có khoảng 1% là có hiểu biết về luật pháp quốc tế để có thể hỗ trợ doanh nghiệp trong các giao dịch thương mại quốc tế và thực sự có chưa đầy 20 người trong số đó là “luật sư tranh tụng” mà có thể đáp ứng được các tiêu chuẩn chung của pháp luật quốc tế. Trong bối cảnh đó, có thể khẳng định rằng, trong giai đoạn này Việt nam chưa thể thành lập các CTLVN mạnh và chuyên nghiệp được.

Luật Luật sư
Quốc hội đã ban hành Luật luật sư mà có hiệu lực vào ngày 01/01/2007 (“Luật Luật sư”) đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trên chặng đường chuyên nghiệp hoá nghề luật sư Việt Nam. Theo đó: (1) Luật Luật sư đã thống nhất điều chỉnh thị trường dịch vụ pháp lý, không còn sự tồn tại hai luật chơi. Ai muốn cung cấp dịch vụ pháp lý thì phải là luật sư và hành nghề luật phải được Luật Luật sư và quy tắc đạo đức nghề nghiệp điều chỉnh; (2) bản chất của tổ chức hành nghề luật sư đã được thừa nhận là doanh nghiệp, luật sư lần đầu tiên được xem là một nghề kinh doanh dịch vụ (tương tự như quan niệm về nghề luật sư của thế giới); và (3) luật sư không phải chịu sự phiền toái vì hộ khẩu khi gia nhập đoàn luật sư nữa. Đáng chú ý là sự mở rộng hình thức hành nghề luật sư (công ty luật trách nhiệm hữu hạn, công ty luật hợp danh, văn phòng luật sư) đã tạo ra nhiều cơ hội cho luật sư khẳng định mình trong nhiều lĩnh vực dịch vụ pháp lý mà trước đây chưa hề tồn tại ở Việt Nam.

Luật Luật sư (sửa đổi, bổ sung)
Luật sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư có hiệu lực từ ngày 01/7/2013 đã được ban hành theo hướng nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ luật sư và phát triển hợp lý số lượng các tổ chức hành nghề luật sư. Về việc hợp nhất, sáp nhập và chuyển đổi hình thức tổ chức hành nghề luật sư, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư cho phép chuyển đổi loại hình từ Văn phòng luật sư có thể chuyển đổi thành công ty luật; Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên được chuyển đổi thành công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và ngược lại; công ty luật trách nhiệm hữu hạn được chuyển đổi thành công ty luật hợp danh và ngược lại. Bên cạnh đó, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư cũng quy định nâng cao chất lượng của luật sư theo hướng luật sư phải Tham gia bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ và tăng thời gian đào tạo nghề luật sư từ 6 tháng lên 12 tháng, đồng thời rút ngắn thời gian tập sự hành nghề từ 18 tháng xuống còn 12 tháng.

Chiến lược phát triển đội ngũ luật sư Việt Nam trong những năm tới
Theo Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày 05/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020”; Quyết định số 2320/QĐ-BTP ngày 13/8/2012 của Bộ Tư pháp về việc ban hành Kế hoạch tổng thể triển khai Chiến lược phát triển hành nghề luật sư đến năm 2020 cũng như thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp (CCTP) đến năm 2020, Bộ Tư pháp đang cùng các Bộ ngành và Hiệp hội của doanh nghiệp xây dựng Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 tầm nhìn 2030. Theo đó, mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, số lượng luật sư Việt Nam sẽ khoảng 18 - 20 nghìn người đảm bảo tỷ lệ luật sư trên dân số ở mức 1 luật sư/10 - 12 nghìn dân và sẽ nâng số luật sư được đào tạo bài bản, được trang bị đầy đủ các kỹ năng tranh tụng, đảm bảo đến năm 2020, hình thành được ít nhất 150 luật sư, 30 tổ chức hành nghề đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Sự thống lĩnh của các công ty luật đa quốc gia
Mặc dù hiện nay với gần 9.000 luật sư đăng ký hành nghề trên toàn quốc nhưng thị trường pháp lý phục vụ hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có quy mô lớn tại Việt Nam, như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, văn phòng đại diện và chi nhánh của các công ty nước ngoài tại Việt Nam, v.v. phần lớn bị thống lĩnh bởi các công ty luật nước ngoài có chi nhánh hay công ty con tại Việt Nam. Điều đáng buồn là tầm cỡ và phạm vi hành nghề của chi nhánh các công ty luật này tại Việt Nam không thực sự lớn, chỉ khoảng từ 20 đến 50 luật sư và nhân viên và phần lớn là các luật sư Việt Nam được thuê mướn vào làm việc cho họ. Có thể đưa ra một vài ví dụ điển hình như chi nhánh các công ty luật Allens Arthur Robinson, Baker & McKenzie, Duane Morris LLP,  Freshfields Bruckhaus Deringer, Mayer Brown JSM Lovells, Gide Loyrette Nouel Co.,  Tilleke&Gibbins, PricewaterhouseCoopers Legal, Russin & Vecchi.    
Các CTLVN đang định hình và phát triển
Dẫu vậy, trong thời gian gần đây, các CTLVN cũng đang trong giai đoạn phát triển nhanh. Nhiều CTLVN được thừa nhận là có tiềm năng để có thể cạnh tranh bình đẳng với các công ty luật quốc tế tại Việt Nam, chẳng hạn như Vilaf, YKVN,  Phuoc & Partners, Indochine Counsel, LCT, Pham & Associates, v.v. Thực tế cho thấy, mỗi CTLVN có những thế mạnh cung cấp dịch vụ pháp lý riêng, thuê mướn từ 20 đến 40 luật sư và nhân viên với văn phòng tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, thậm chí, có vài CTLVN  đã mạnh dạn khai thác thị trường pháp lý ở các tỉnh miền Trung qua việc mở chi nhánh tại Đà Nẵng. Những luật sư sáng lập và luật sư điều hành của các CTLVN này đa số là người Việt Nam, có kinh nghiệm làm việc cho các công ty luật quốc tế tại Việt Nam, một số làm việc cho các công ty dịch vụ tư vấn đầu tư Việt Nam, hoặc trở về hành nghề luật tại Việt sau thời gian du học ở các nước phương Tây hoặc Đông Âu và Liên Xô cũ.  

Khuynh hướng phát triển phổ biến của các CTLVN trong thời gian vừa qua phần nhiều là chia, tách để khẳng định mình hơn là sáp nhập, hợp nhất để cùng phát triển. Có thể hiểu rằng, đây cũng là khuynh hướng chung trong giai đoạn thị trường pháp lý ở Việt Nam đang phát triển và còn non trẻ. Nhiều CTLVN mới được thành lập từ việc chia, tách các CTLVN trong vài năm gần đây đã nhanh chóng khẳng định mình với quy mô khá lớn từ cơ sở vật chất (văn phòng, trang thiết bị hành nghề luật), công nghệ thông tin (website, phần mềm chuyên dùng) đến con người (thuê luật sư nước ngoài và luật sư Việt Nam đi du học ở nước ngoài), ví dụ như LuatViet, Phuoc & Partners,  LCT Lawyers, LNT & Partners v.v.

Cũng có một vài CTLVN gần đây cũng cố gắng thử nghiệm hợp tác với các công ty luật nước ngoài tầm cỡ khu vực như LCT Lawyers và Rajah & Tann (Singapore) nhưng cũng chưa biết được kết quả hợp tác về lâu dài như thế nào.

Thị trường đang phát triển nhanh
Việc Việt Nam trở thành thành viên WTO và sẽ là thành viên AEC và có thể sẽ trở thành thành viên của TPP trong đầu năm 2016 sẽ mở ra rất nhiều vận hội và thách thức mới cho các CTLVN. Sử dụng dịch vụ tư vấn pháp lý trong kinh doanh cũng trở nên thiết yếu hơn là “mốt” của nhiều doanh nghiệp Việt Nam như trước đây. Càng nhiều các công ty nước ngoài tiếp tục tìm kiếm cơ hội đầu tư vào Việt Nam; các công ty Việt Nam đã hay chuẩn bị “lên sàn” hoặc nhiều doanh nghiệp Việt Nam vừa và nhỏ khác đang tái cơ cấu để thích nghi với tình hình mới và phát triển, đều cần tham vấn ý kiến pháp lý từ luật sư để bảo đảm hoạt động kinh doanh luôn tuân thủ pháp luật và phát triển bền vững hoặc để giải quyết các tranh chấp phát sinh.. Nhìn lại sự phát triển của thị trường, có thể nói vào thời điểm hiện tại và ít nhất trong vòng 20 năm tới, “chiếc bánh dịch vụ pháp lý” vẫn còn đủ lớn cho các CTLVN.

Điều kiện cần và đủ đã có, tại sao vẫn chưa có các CTLVN tầm cỡ khu vực tại Việt Nam?
Trong vô vàn những lý do, có thể tóm tắt ở năm điểm chính sau đây:

1. “Vênh” kiến thức pháp lý. Hoàn cảnh khách quan của lịch sử và đời sống chính trị Việt Nam có nhiều thay đổi lớn trong thế kỷ 20 đã tạo nên các điểm “vênh” về kiến thức pháp lý giữa các luật sư Việt Nam. Một số người là du học sinh tại các nước thuộc Liên Xô cũ, được đào tạo theo hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, một số được đi du học ở các nước tư bản phương Tây, một số khác lại được đào tạo ở trong nước trước hoặc sau ngày giải phóng (30/4/1975) hoặc trước thời kỳ mở cửa (1986) và phần đông còn lại là những người trẻ tuổi thế hệ 7x, 8x, 9x được đào tạo trong nước sau thời kỳ mở cửa (theo hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa có định hướng kinh tế thị trường) hay đi du học ở các nước phát triển phương tây. Việc hợp tác hành nghề giữa những luật sư này đã gặp rất nhiều khó khăn do sự sai biệt về phương pháp luận, cách tư duy, nhận thức và nhìn nhận vấn đề pháp lý.

2. “Đặc thù tính cách Việt Nam”. Việt Nam - một đất nước với “ba miền tính cách”. Điều kiện địa lý, môi trường xã hội đã tạo nên con người ba miền những nét đặt thù khá riêng về tính cách. Sự đặc thù của mỗi “miền tính cách” đôi khi đã tạo nên những khó khăn không thể dung hòa khi có sự liên doanh, hợp tác, liên kết hành nghề giữa luật sư. Một số trường hợp chia, tách các CTLVN trong thời gian qua cũng một phần bắt nguồn từ sự sai biệt này.

3. “Thu nhập” – phân chia chưa chuyên nghiệp. Việc phân chia thu nhập không đồng đều giữa các luật sư trong cùng một công ty luật cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến nhiều cuộc chia, tách các CTLVN. Do đặt trưng của nghề luật sư là các luật sư thành viên hoạt động dựa trên thời gian làm việc của chính mình, kinh nghiệm tích lũy, danh tiếng, sự tin cậy của khách hàng nên nếu áp dụng việc phân chia thu nhập theo dạng cổ phần hay phần vốn góp trong các công ty cổ phần, trách nhiệm hữu hạn bình thường sẽ không thể phản ánh đúng, đầy đủ và công bằng công sức đóng góp của từng luật sư thành viên trong các công ty luật và thường dẫn đến những tranh chấp không đáng có. Các phương thức phân chia thu nhập khác cũng đã được xem xét nhưng do khá phức tạp trong việc tính toán thu nhập nên không được nhiều các CTLVN ưa chuộng. Bên cạnh đó, các phần mềm vi tính phục vụ việc tính phí khách hàng và phân chia thu nhập luật sư được mã hóa tiếng Việt lại không sẵn có trên thị trường hay quá đắt và không tương thích với người sử dụng Việt Nam. Do vậy, việc phân chia thu nhập trong các CTLVN gặp khó.

4. Cách hành xử “độc lập” của luật sư. Độc lập, trung thực và tôn trọng sự thật khách quan là một trong những nguyên tắc chính của việc hành nghề luật sư. Từ đó, nhiều luật sư có suy nghĩ là trong quá trình hành nghề luật họ không chỉ hành xử độc lập với tòa án, cơ quan nhà nước mà cũng cần phải độc lập với cả luật sư đồng nghiệp. Do đó, các luật sư thường có khuynh hướng thích “độc lập tác chiến” hơn là hợp tác với các luật sư khác trong việc cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Nhiều khi nhận được những yêu cầu hỗ trợ pháp lý của khách hàng không thuộc chuyên môn nhưng luật sư vẫn âm thầm thực hiện theo tiêu chí “vừa làm vừa học” hơn là đi hỏi ý kiến tư vấn của những luật sư khác hay giới thiệu cho các luật sư khác do sợ rằng những luật sư khác có thể sẽ chê bai họ không có đủ chuyên môn, nghiệp vụ hay lấy khách hàng của họ. Từ đó, việc trao đổi hay cập nhật kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn giữa các luật sư đồng nghiệp thường rất hạn chế.

5. Nghề luật sư chưa được thừa nhận là một nghề kinh doanh dịch vụ. Hoạt động nghề nghiệp luật sư được quy định như là để góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Do đó, luật sư không được khuyến khích kinh doanh, làm giàu như các nghề nghiệp khác. Điều này trong một chừng mực nào đó góp phần gián tiếp trong việc cản trở các luật sư có điều kiện hợp tác với nhau để hình thành nên các CTLVN tầm cỡ khu vực.

Chúng ta phải làm gì để mong ước của chúng ta thành hiện thực?
Để thực hiện được mong ước này, Việt Nam cần phải có một chiến lược trung và dài hạn, có thể bao gồm những bước sau:

1. Các CTLVN có thể cân nhắc tham gia hợp tác với nhau theo ba giai đoạn (cộng tác trước, hợp tác kế tiếp và hợp nhất, sáp nhập sau cùng) để tìm hiểu nhau sâu, rộng hơn. Gần đây, đã có một vài công ty luật tầm cỡ khu vực đã tìm cách liên minh với nhau để cùng phát triển theo các giai đoạn trên (ví dụ Mayer Brown to form Hong Kong Alliance with China's Jingtian).

2. Những luật sư Việt Nam cần phải nâng cao tính tự hào dân tộc trong mỗi bản thân và gạt bỏ những “cái tôi độc lập” để kết hợp với những luật sư có thế mạnh chuyên môn khác cùng phát triển các CTLVN.

3. Sự thừa nhận đích thực của Nhà nước và xã hội về tính chất cung cấp dịch vụ của nghề luật sư.

4. Sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua các công cụ quản lý hành chính như tiếp tục cho miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, cung cấp học bổng để luật sư được tiếp cận với kiến thức luật của các nước tiên tiến, thông tin tuyên truyền về cách nhìn mới tích cực về nghề nghiệp luật sư cũng như xem xét thay đổi phương cách và nội dung giảng dạy trong các khóa đào tạo hành nghề luật sư.

5. Một mô hình phân chia lợi nhuận hợp lý cần được thảo luận đề quyền lợi kinh tế của từng luật sư được đảm bảo.

6. Bản thân mỗi luật sư cần nâng cao kiến thức kế toán, tài chính, từ đó có thể vận hành một công ty luật lớn như một tập đoàn kinh tế khu vực thật sự.

Nếu tất cả hay từng phần của các bước trên đây được thực hiện nghiêm túc và đầy đủ thì có thề hy vọng rằng trong tương lai không xa Việt Nam sẽ có thể chứng kiến nhiều cuộc sáp nhập, hợp nhất giữa các CTLVN hàng đầu hiện nay với hàng trăm luật sư tư vấn luật sư tranh tụng giỏi và chuyên nghiệp ở nhiều dịch vụ pháp lý chuyên ngành (ví dụ như luật sư sở hữu trí tuệ, luật sư kinh tế) sẽ ra đời và phát triển để cạnh tranh bình đẳng với các công ty luật nước ngoài trên chính sân nhà của mình và từng bước hòa nhập vào sân chơi khu vực và quốc tế, với vị thế ngày càng cao. Hãy cùng chung tay thực hiện ước mơ xây dựng những CTLVN hùng mạnh với niềm tin “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại thành hòn núi cao”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét