Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân – nên hay không?
(Phạm Trọng Thanh Thủy – Phuoc & Partners)
Ở các nước phương Tây, vấn đề
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không xa lạ vì nó giúp các cặp vợ, chồng
chủ động hơn trong việc quản lý tài chính của mỗi người cũng như hạn chế rủi ro
ảnh hưởng đến khối tài sản chung nếu chẳng may khối tài sản chung đó bị thua lỗ
hay mất trắng vì lý do nào đó[1]. Ở Việt Nam, vấn đề chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân là một chế định được pháp luật thừa nhận và được cụ
thể hóa tại Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 (“LHNGĐ 2014”) có hiệu lực từ ngày
01/07/2015 và thay thế cho Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 (“LHNGĐ 2012”).
Thế nào là chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân?
Trước khi tìm hiểu về chế định
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, cũng nên tìm hiểu qua tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân bao gồm những loại tài sản nào. Theo quy định của LHNGĐ 2014[2],
tài sản được xem là tài sản chung của vợ, chồng nếu tài sản đó phát sinh trong
thời kỳ hôn nhân mà có nguồn gốc từ: (i) thu nhập do lao động của mỗi bên; (ii)
hoạt động sản xuất, kinh doanh của mỗi bên; (iii) hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
tài sản riêng của mỗi bên; (iv) thừa kế chung hoặc được tặng cho chung, và (vi)
tài sản khác mà vợ, chồng thỏa thuận là tài sản chung. Như vậy, có thể thấy rằng
khi hôn nhân tồn tại càng dài thì khối tài sản chung càng có điều kiện phát triển
lớn hơn. Khi đó, xuất phát từ nhu cầu khác nhau của vợ, chồng mà mỗi bên sẽ mong
muốn sử dụng, định đoạt một phần tài sản trong khối tài sản chung để phục vụ
cho mục đích riêng của mình. Tuy nhiên, không phải lúc nào việc sử dụng, định
đoạt này cũng được cả hai vợ, chồng đồng thuận nên việc chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân sẽ là giải pháp tạo điều kiện cho mỗi bên có quyền chủ động định
đoạt phần tài sản được chia và không làm ảnh hưởng đến khối tài sản chung còn lại
trong thời kỳ hôn nhân.
Pháp luật hôn nhân gia đình của
Việt Nam nói chung chưa có định nghĩa cụ thể như thế nào là chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân nhưng có thể tạm hiểu rằng việc chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân là việc chuyển một hoặc nhiều tài sản vốn thuộc khối tài sản
chung vào khối tài riêng của vợ hoặc chồng (“Chia
tài sản chung”). Theo đó, khi tiến hành chia khối tài sản chung, vợ, chồng
có thể thỏa thuận rằng người này hoặc người kia nhận nhiều tài sản hơn, dù trên
thực tế công sức đóng góp của người nhận nhiều tài sản vào việc tạo lập, phát
triển khối tài sản chung có thể chưa tương xứng với giá trị của số tài sản được
nhận[3]. Đối với khối tài sản
chung còn lại không được chia thì nó vẫn tiếp tục thuộc khối tài sản chung của
vợ, chồng và được áp dụng theo nguyên tắc quản lý, sử dụng, định đoạt khối tài
sản chung của LHNGĐ 2014.[4]
Khi nào thì được chia khối tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân?
Trong khi LHNGĐ 2000 có quy định cụ thể một số trường hợp mà vợ, chồng được quyền
thỏa thuận chia tài sản chung thì LHNGĐ 2014 dường như nới rộng hơn
quyền này khi cho phép vợ, chồng được quyền tự do thỏa thuận phân chia tài sản
chung miễn là việc phân chia đó không vi phạm các quy định của LHNGĐ 2014[5]. Mặc dù vậy, các trường hợp được quy định tại LHNGĐ 2000 có thể được xem là một trong những trường hợp tiêu biểu tham
khảo về các trường hợp chia tài sản chung khi áp dụng LHNGĐ 2014. Dưới đây là ba trường hợp được chia tài sản chung theo quy định
của LHNGĐ 2000.
Trường hợp 1: Chia tài sản chung để đầu tư kinh doanh riêng
Khái niệm về đầu tư kinh
doanh riêng chưa được định nghĩa tại LHNGĐ 2000 nên nó có thể được hiểu
theo nghĩa khá rộng, có thể là dự án đầu tư đang được thực hiện hoặc cũng có thể
chỉ mới được chuẩn bị thực hiện, hay thậm chí đang trong giai đoạn thai nghén. Như
vậy, có thể kết luận rằng, kể cả khi một ý tưởng kinh doanh chỉ mới được hình thành
trong suy nghĩ thì các bên vẫn có thể thỏa thuận việc phân chia tài sản chung. Dưới
góc độ kinh tế, việc chia tài sản chung dường như trở nên hữu ích hơn vì nó
giúp cho vợ hoặc chồng - người đầu tư kinh doanh có thể tự định đoạt, tự xác lập
các giao dịch (như cầm cố, thế chấp các tài sản có giá trị) theo những thủ tục
đơn giản, không mất thời gian chờ đợi sự đồng ý từ người vợ (hoặc chồng) còn lại.
Trường hợp 2: Chia tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ dân sự
riêng
Về nguyên tắc, vợ hoặc chồng
phải có trách nhiệm dùng tài sản riêng của mình để thanh toán cho các nghĩa vụ
riêng của người đó nếu nghĩa vụ riêng đó phát sinh trong thời kỳ hôn nhân[6]. Ví dụ như nghĩa vụ trả nợ
cho bên thứ ba (nghĩa vụ riêng phát sinh từ giao dịch vay nợ riêng giữa vợ hoặc
chồng với bên thứ ba) hay nghĩa vụ phát sinh từ trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do hành vi trái pháp luật của cá nhân vợ hoặc chồng mà người còn lại không bị
ràng buộc một cách liên đới.
Vấn đề đặt ra là nếu tài sản
riêng của cá nhân vợ hoặc chồng không đủ để thực hiện nghĩa vụ riêng của người
đó thì sẽ giải quyết như thế nào? Trong trường hợp này, việc chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân là giải pháp được đặt ra cho người vợ hoặc chồng (người
có nghĩa vụ dân sự riêng) có thêm tài sản để thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba.
Thực ra việc chia tài sản chung trong trường hợp này chỉ được đặt ra khi mà vợ
hoặc chồng – người còn lại, không đồng ý với việc sử dụng khối tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân để phục vụ cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng của một
bên. Do đó, nếu cả hai vợ, chồng đều đồng ý sử dụng khối tài sản chung để thanh
toán cho nghĩa vụ riêng của một bên thì sẽ không có câu chuyện chia tài sản
chung.
Trường hợp 3: Chia tài sản chung vì lý do chính đáng
LHNGĐ 2000 và các văn bản hướng dẫn
dưới luật trước đây chưa có hướng dẫn cụ thể như thế nào được xem là lý do
chính đáng. Tuy nhiên, một số lý do chính đáng có thể được xem là hợp lý cho mục
đích chia tài sản chung, đó là khi: (i) vợ hoặc chồng thường xuyên có hành vi
phá tán tài sản chung dẫn đến người còn lại phải yêu cầu chia tài sản chung để
đảm bảo sự toàn vẹn của khối tài sản chung để nuôi con nhỏ; hoặc (ii) trường hợp
vợ hoặc chồng vắng mặt tại nơi cư trú hay bị mất tích và người còn lại cần có một
khối tài sản riêng để được chủ động hơn trong các giao dịch của mình; hoặc
(iii) trường hợp vợ hoặc chồng không còn sống chung nữa (ly thân thực tế) nhưng
không muốn chấm dứt quan hệ hôn nhân và mong muốn tách bạch khối tài riêng của
mỗi bên[7].
Các trường hợp chia tài sản
chung được liệt kê nêu trên có thể là các ví dụ thiết thực tại thời điểm hiện tại
cho các cặp vợ, chồng vận dụng khi mà LHNGĐ 2014 chỉ vừa mới được ban
hành và chưa có Nghị định hướng dẫn về vấn đề này. Có thể thấy
rằng, LHNGĐ 2014 đã tạo ra một bước tiến quan trọng trong việc nới rộng quyền
tự do chia tài sản chung của vợ, chồng nhằm theo kịp với sự thay đổi không ngừng
của cuộc sống hiện đại ngày nay.
Thủ tục tiến hành chia tài sản chung
Vợ, chồng có thể tiến hành chia
tài sản chung theo một trong hai cách sau: tự thỏa thuận hoặc yêu cầu tòa án có
thẩm quyền giải quyết. Nếu việc phân chia tài sản chung được tiến hành dựa trên
sự đồng thuận của vợ, chồng thì vợ, chồng có thể tham khảo các bước sau:
Bước 1: Cùng ngồi lại trao đổi
với người bạn đời về các dự định, mong muốn của mỗi bên khi tiến hành việc chia
tài sản chung, trong đó thống nhất các vấn đề về khối tài sản chung sẽ được
chia và cách chia như thế nào;
Bước 2: Sau khi đã thống nhất với
nhau về cách chia, bước tiếp theo đó là soạn thảo thỏa thuận chia tài sản chung
này như thế nào. Trong trường hợp này, việc tìm đến một luật sư uy tín, có kinh
nghiệm về luật hôn nhân gia đình để hỗ trợ là điều nên xem xét. Việc này không
chỉ giúp các bên thể hiện trọn vẹn, súc tích, đầy đủ các nội dung đã thống nhất
trước đó mà còn đảm bảo việc tuân thủ điều kiện về mặt hình thức và nội dung của
một thỏa thuận chia tài sản chung theo quy định pháp luật.
Lưu ý rằng, đối với điều kiện
về hình thức mà thỏa thuận cần phải đáp ứng, ngoài việc phải được soạn thảo dưới
dạng văn bản, một số trường hợp theo quy định của pháp luật, văn bản thỏa thuận
chia tài sản chung phải được công chứng[8]. Riêng đối với điều kiện về
mặt nội dung của thỏa thuận, mặc dù LHNGĐ 2014 và Nghị định 126/2014 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật LHNGĐ 2014 chưa đưa ra các điều
khoản bắt buộc cần phải có trong thỏa thuận, tuy nhiên để tránh các tranh chấp đáng
tiếc xảy ra về sau, các bên cần biết các điều khoản nào là quan trọng để đưa
vào thỏa thuận[9].
Bước 3: Quan tâm đến thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận chia tài sản.
Hiểu biết về thời điểm có hiệu
lực của sự phân chia tài sản chung cũng không kém phần quan trọng vì nó giúp xác
định được thời điểm nào mà khối tài sản dự định chia không còn thuộc khối tài sản
chung của vợ, chồng theo quy định của pháp luật nữa, từ đó, các bên sẽ có quyền
định đoạt khối tài sản được chia theo ý chí của mình. Cụ thể, thời điểm có hiệu
lực của việc phân chia tài sản chung sẽ là thời điểm do vợ, chồng thỏa thuận và
được ghi trong văn bản. Nếu trong văn bản lại không có xác định thời điểm có hiệu
lực thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn
bản[10]. Trường hợp nếu tài sản
được chia mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải
tuân theo hình thức nhất định thì thời điểm có hiệu lực được tính từ thời điểm
việc thỏa thuận tuân thủ hình thức pháp luật quy định.
Việc áp dụng các bước nêu trên,
trong chừng mực nào đó sẽ tạo cho vợ, chồng tâm lý thoải mái hơn khi trao đổi với
người bạn đời và đạt được sự đồng thuận dễ dàng hơn bởi ít vợ, chồng đã có những
kiến thức pháp luật cơ bản và định hướng
cần phải làm gì khi tiến hành một vụ thỏa thuận phân chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân. Trường hợp các bên không thể tự thỏa thuận được thì các bên có
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Thủ tục chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân bằng con đường tòa án sẽ được thực hiện tương tự như việc chia tài sản
trong một vụ ly hôn thông thường. Theo đó, bên có yêu cầu sẽ nộp đơn yêu cầu tòa
án giải quyết và tòa án sẽ dựa theo nguyên tắc xác định công sức đóng góp của mỗi
bên đối với khối tài sản dự định phân chia trên cơ sở xem xét hoàn cảnh của các
bên, đảm bảo lợi ích cho mỗi bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập[11]. Cũng lưu ý thêm, thời điểm
có hiệu lực của việc chia tài sản chung trong trường hợp này sẽ được tính từ ngày
bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Việc chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân sẽ không làm chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa vợ, chồng mà
chỉ làm thay đổi khối tài sản chung của vợ, chồng theo hướng chuyển một hoặc
nhiều tài sản trong khối tài sản chung vào tài sản riêng của mỗi bên và phần
hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng đó cũng thuộc về tài sản riêng của
bên được chia[12].
Bên cạnh đó, LHNGĐ 2014 cũng đặt vấn đề liên quan đến trách nhiệm của vợ, chồng trong
việc đảm bảo thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba nếu thỏa thuận chia tài sản
chung được pháp luật công nhận. Theo đó, Điều 40.2 LHNGĐ 2014 quy định rằng, nếu thỏa thuận chia tài sản chung của vợ, chồng
có hiệu lực thì nghĩa vụ của vợ, chồng được xác lập với bên thứ ba trước khi có
sự phân chia tài sản chung vẫn sẽ không thay đổi. Quy định này cùng với nguyên
tắc chịu trách nhiệm của vợ, chồng đối với các nghĩa vụ phát sinh trong thời kỳ
hôn nhân[13] giúp
làm rõ việc trong thời kỳ hôn nhân nếu vợ hoặc chồng xác lập giao dịch với bên
thứ ba và giao dịch đó được đảm bảo bằng tài sản riêng của một bên thì sau khi
thỏa thuận chia tài sản chung giữa hai vợ, chồng có hiệu lực, bên có nghĩa vụ vẫn
sẽ dùng tài sản riêng của mình để tiếp tục thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba[14], nhưng nếu nghĩa vụ với
bên thứ ba được đảm bảo bằng tài sản chung của cả vợ, chồng thông qua việc vợ,
chồng cùng xác lập giao dịch đó thì vợ, chồng đương nhiên phải cùng chịu trách
nhiệm liên đới trước bên thứ ba kể cả khi đã tiến hành vụ việc phân chia tài sản
chung. Tuy nhiên, nếu giả sử sau khi tiến hành phân chia tài sản chung mà khối
tài sản chung còn lại của vợ, chồng sau đó không còn đủ để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ với bên thứ ba thì quyền lợi của bên thứ ba sẽ được giải quyết như thế
nào? Quy định của pháp luật hôn nhân gia đình giải quyết trường hợp này theo hướng
sự phân chia tài sản chung giữa vợ, chồng có thể bị xem là vô hiệu nếu sự phân
chia này nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba[15]. Một cách hợp lý, có thể
suy luận rằng trong trường hợp này, bên thứ ba có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm
quyền công nhân sự phân chia tài sản chung của vợ, chồng là vô hiệu miễn là bên
thứ ba phải có cơ sở và chứng cứ rõ ràng chứng minh được mục đích của việc chia
tài sản là nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với mình. Thế nhưng, hiện tại LHNGĐ 2014 mới chỉ dừng lại việc đặt vấn đề bảo vệ quyền lợi cho bên thứ
ba thông qua việc không công nhận sự phân chia tài sản chung của vợ, chồng mà chưa
có quy định rõ ràng hướng dẫn cho bên thứ ba áp dụng để bảo vệ quyền lợi của họ,
ví dụ như bên thứ ba phải thực hiện quyền yêu cầu của mình với cơ quan nào,
theo thủ tục như thế nào để đảm bảo rằng thỏa thuận phân chia tài sản chung sẽ
không có hiệu lực và sử dụng nó để yêu cầu vợ, chồng thực hiện nghĩa vụ đối với
mình. Hi vọng rằng, trong tương lai gần, quy định này sẽ được cụ thể hóa hơn để
tạo sự cân bằng quyền lợi giữa các bên trước xu hướng việc chia tài sản chung
trong thời kỳ hôn nhân là một chế định đang được thừa nhận và áp dụng rộng rãi.
Chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân
Bên cạnh việc công nhận chế
định chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, pháp luật hiện hành còn trao
cho các bên quyền được thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung
nếu các bên không còn nhu cầu áp dụng chế độ chia tài sản chung nữa. Theo đó, để
đưa khối tài sản riêng đã được được phân chia vào lại khối tài sản chung thì khi
tiến hành thỏa thuận chấm dứt việc chia tài sản chung, các bên cũng cần tuân thủ
các điều kiện về hình thức tương tự như các quy định khi chia tài sản chung,
trường hợp nếu sự phân chia tài sản chung được giải quyết bằng con đường Tòa án
thì việc chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong trường hợp này
cũng phải được Tòa án công nhận[16].
Kết luận
Trong bối cảnh nền kinh tế phát
triển như hiện nay, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không chỉ có
ý nghĩa hạn chế các rủi ro ảnh hưởng đến khối tài sản chung của vợ, chồng và
gián tiếp ảnh hưởng đến những người phụ thuộc (ví dụ như cha, mẹ, con cái) mà
nó còn là giải pháp loại bỏ các mâu thuẫn giữa vợ, chồng trong việc quản lý, sử
dụng, định đoạt khối tài sản bởi không phải lúc nào vợ, chồng cũng đạt được sự
đồng thuận trong việc định đoạt khối tài sản chung của gia đình. Ngoài ra, việc
chia tài sản chung cũng góp phần mang lại lợi ích kinh tế cho đất nước thông
qua các giao dịch độc lập và chủ động của vợ, chồng. Chính vì vậy, việc thừa
nhận chế định chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân sẽ là giải pháp có ích cho
các cặp vợ, chồng và đem đến nguồn lực cho việc phát triển kinh tế cho quốc
gia.
[1]
Stephen T.Gray, Treatment of Postnuptial Agreements under Oklahoma Law. <https://www.law.ou.edu/sites/default/files/files/OU_LAW_ADMIN/09%20gary%20comment%20blu1.pdf>
[2] Điều 33, Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.
[3] Điều 38.1, Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.
[4] Điều 35, Luật Hôn nhân gia đình 2014.
[5] Điều 38, khoản 1 Luật Hôn nhân gia đình 2014.
[6] Điều 44, khoản 3, Luật Hôn nhân gia đình
2014.
[7] Nguyễn Ngọc Điện, 2004. Bình luận khoa học về Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam. Hồ Chí Minh:
Nhà Xuất Bản trẻ
[8]
Điều 38.2 Luật Hôn nhân gia đình
2014.
[9] Thực ra, Điều 6 của Nghị định 70/2001/NĐ-CP hướng
dẫn thi hành Luật Hôn nhân gia đình 2000 (nay được thay thế bởi Nghị định
126/2014 quy định chi tiết một số điều của Luật Hôn nhân gia đình 2014) đã từng
đưa ra các điều khoản bắt buộc phải có trong văn bản Thỏa thuận chia tài sản
chung. Tuy nhiên, đến khi Luật Hôn nhân gia đình 2014 ra đời thì quy định này lại
không thấy được đề cập đến nữa.
[10]
Điều 39, khoản 1 và khoản 2 của
Luật Hôn nhân gia đình 2014
[14]
Trừ trường hợp nếu nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ hoặc chồng tự
xác lập để phục vụ cho nhu cầu của gia đình thì cả hai vợ, chồng phải có nghĩa
vụ liên đới trong việc thực hiện nghĩa vụ này (Điều 45.3 LHNGĐ 2014)
[15]
Ngoài trường hợp nêu trên, Điều
42 LHNGĐ 2014
cũng nêu thêm các trường hợp khác mà việc chia tài sản chung có thể bị vô hiệu
nếu các bên vi phạm các quy định này.
[16]
Điều 41 Luật Hôn nhân gia đình 2014.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét