Doanh nghiệp bị gièm pha có thực sự được bảo vệ
theo luật cạnh tranh không?
(Phạm Trọng Thanh Thủy - Công ty luật Phuoc &
Partners)
Thương trường
là chiến trường mà nhân vật chính không ai khác chính là các thương nhân. Nếu
như các doanh nghiệp chân chính không ngừng đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng,
thay đổi kiểu dáng sản phẩm thì nhiều doanh nghiệp không chân chính lại sử dụng
những hành vi không lành mạnh nhằm hạ bệ doanh nghiệp đối thủ để trục lợi cho doanh
nghiệp mình. Một trong các hành vi cạnh tranh không lành mạnh vẫn thường được
báo chí nhắc đến trong thời gian gần đây đó là hành vi “Gièm pha doanh nghiệp”. Bài viết này sẽ phân
tích các đặc trưng của hành vi gièm pha doanh nghiệp, đưa ra nhận xét về các
quy định của pháp luật hiện hành để doanh nghiệp có cái nhìn tổng quan hơn, từ
đó có định hướng bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Vậy, thế nào là “Gièm pha doanh nghiệp”?
Theo quy định tại Điều 43,
Luật cạnh tranh 2004 (“Luật cạnh tranh”), hành vi bị xem là gièm pha doanh nghiệp
khi một doanh nghiệp sử dụng một hoặc nhiều biện pháp trực tiếp hay gián tiếp
đưa ra thông tin không trung thực về hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp đối thủ
khiến cho khách hàng không tin tưởng vào sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp đối
thủ, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình
trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đối thủ.
Làm thế nào để bảo vệ doanh nghiệp bị gièm pha?
Biện pháp khiếu nại đến
Cục quản lý cạnh tranh (“Cục QLCT”). Để bắt đầu vụ việc khiếu nại,
doanh nghiệp bị gièm pha phải lưu ý về thời hạn khiếu nại mà Luật Cạnh tranh
quy định. Theo đó, trong vòng 02 năm kể từ ngày hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh
tranh được thực hiện[1], doanh nghiệp bị gièm pha nếu muốn khiếu nại phải chuẩn bị hồ sơ
đầy đủ theo quy định, bao gồm: Đơn khiếu nại (theo mẫu), chứng cứ về hành vi vi
phạm và tài liệu chứng minh tư cách của bên khiếu nại nộp cho Cục QLCT xem xét
và thụ lý. Ưu điểm của biện pháp này là doanh nghiệp bị gièm pha không có nghĩa
vụ phải chứng minh một cách toàn diện các yếu tố cấu thành hành vi vi phạm của doanh
nghiệp bị khiếu nại nào đó, mà họ có quyền giả định rằng doanh nghiệp bị khiếu
nại ấy đã có hành vi gièm pha doanh nghiệp khi doanh nghiệp bị khiếu nại “đưa
thông tin không đúng sự thật” về sản phẩm, dịch vụ hay hoạt động kinh doanh của
mình, rồi yêu cầu Cục QLCT xem xét, xác minh và xử lý - trong trường hợp này
doanh nghiệp bị gièm pha chỉ cần xuất trình một vài chứng cứ cho thấy việc “đưa
thông tin” và “những gì không đúng sự thật”. Sau đó, khi tiếp nhận khiếu nại, Cục
QLCT sẽ là cơ quan trực tiếp điều tra, xem xét một cách toàn diện các yếu tố cấu
thành hành vi vi phạm bị khiếu nại và đưa ra quyết định có hay không có hành vi
vi phạm. Như vậy, nghĩa vụ chứng minh của doanh nghiệp khiếu nại sẽ được giảm
nhẹ đáng kể.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ của
trình tự giải quyết khiếu nại của Cục QLCT, yêu cầu bồi thường thiệt hại của
doanh nghiệp bị gièm pha, kể cả khi thiệt hại này là rất lớn, sẽ không được Cục
QLCT xem xét bởi lẽ đây là vấn đề thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Ngoài
ra, trong quyền hạn luật định[2], Cục QLCT cũng chỉ được xử
lý, áp dụng các hình thức xử phạt hành chính (chế tài hành chính) là cảnh cáo
hoặc phạt tiền (mức phạt tiền áp dụng từ 10 đến 150 triệu đồng, tùy thuộc vào mức
độ vi phạm), và áp dụng hình thức xử phạt bổ
sung cùng với biện pháp khắc phục hậu quả bao gồm tịch thu tang vật, phương tiện
được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm hoặc buộc cải chính công khai.
Biện
pháp khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền. Điều 117 của Luật Cạnh tranh quy định rằng “Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại
đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác
thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật”. Như vậy, vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh
không lành mạnh gây ra chưa được quy định cụ thể tại Luật Cạnh tranh mà chỉ được
Luật cạnh tranh dẫn chiếu đến các quy định của pháp luật dân sự, cụ thể là các
quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Bộ luật dân sự năm 2005.
Khác với Cục QLCT, Tòa án chính là cơ quan có thẩm quyền xem xét và phán quyết
về việc bồi thường thiệt hại cho doanh nghiệp bị gièm pha. Tuy thế, khả năng được
bồi thường thiệt hại của doanh nghiệp bị gièm pha thông qua khởi kiện và tranh
tụng tại Tòa án có thẩm quyền trong trường hợp này không hẳn là đặc tính khiến
cho biện pháp này vượt trội hơn so với biện pháp khiếu nại như được nêu ở trên.
Vì Tòa án là cơ quan có chức năng xét xử, nên Tòa án sẽ không tự điều tra, xác
minh các tình tiết liên quan đến “hành vi gièm pha doanh nghiệp” hay “thiệt hại”
mà doanh nghiệp bị gièm pha phải gánh chịu. Nói cách khác, chính doanh nghiệp bị
gièm pha, với tư cách là nguyên đơn, phải tự chứng minh về sự tồn tại của các
tình tiết này và tự đưa ra các luận cứ bảo vệ cho yêu cầu được bồi thường thiệt
hại (cũng như các yêu cầu khác) trong suốt quá trình tố tụng. Vì thế, có thể
nói nghĩa vụ “chứng minh” của doanh nghiệp bị gièm pha sẽ là “gánh nặng” mà họ
cần có sự chuẩn bị trước về mặt tâm lý nếu họ lựa chọn biện pháp khởi kiện đối
với doanh nghiệp có hành vi gièm pha. Ngoài ra, trình tự tố tụng liên quan đến
việc thụ lý và xét xử của Tòa án trong thực tiễn có thể bị kéo dài thêm nhiều
tháng (hoặc thậm chí thêm hàng năm)[3] cũng là điểm khiến cho biện
pháp khởi kiện tại Tòa án này mất đi ưu thế.
Do đó, mặc dù biện pháp khởi
kiện có thể đáp ứng được mong mỏi của doanh nghiệp bị gièm pha là “thiệt hại” của
họ có thể được bù đắp hay được bồi thường thông qua các chế tài của Tòa án và
công ty thi hành án của nhà nước nhưng để theo đuổi vụ kiện thì đòi hỏi doanh
nghiệp bị gièm pha cần chuẩn bị tài chính (án phí, phí luật sư), thời gian và chứng
cứ vững mạnh để thuyết phục Tòa án.
Nhận định về pháp luật cạnh tranh của Việt Nam hiện
nay
Mặc dù pháp
luật cạnh tranh Việt Nam đã có những quy định quan trọng nhằm khẳng định vai
trò của mình trong việc bảo vệ các doanh nghiệp chân chính và hướng đến một môi
trường cạnh tranh lành mạnh, nhưng sau nhiều năm áp dụng, quy định của pháp luật
cạnh tranh, trong một chừng mực nào đó, đã bộc lộ một số điểm bất cập. Các điểm
bất cập được nêu dưới đây sẽ giúp doanh nghiệp hình dung rõ hơn về các rủi ro mà
doanh nghiệp bị vi phạm có thể phải chịu trước những bất cập của pháp luật cạnh
tranh.
Thứ nhất, xem xét tới chế tài xử phạt hành chính với mức từ 10 đến 150 triệu đồng, có thể thấy
rằng mức xử phạt này đã không còn phù hợp với thực tiễn, cũng như chưa đủ
sức nặng răn đe các doanh nghiệp vi phạm. Điều này vô hình chung có thể dẫn đến
việc doanh nghiệp có dụng ý cạnh tranh không lành mạnh vẫn bất chấp số tiền phạt
vi phạm hành chính mà thực hiện dụng ý của
mình để loại bỏ hay làm yếu đi đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Thực ra thì quốc gia nào
cũng vậy, ở giai đoạn đầu xây dựng luật cạnh tranh, họ cũng không thể tránh khỏi
những quan điểm, cách nhìn chưa gần với thực tiễn. Chỉ khi luật được đưa vào áp
dụng trong một khoảng thời gian, những điểm, khía cạnh chưa thực tiễn của nó sẽ
dần được bộc lộ, và đấy chính là các căn cứ xác đáng để các nhà lập pháp xem
xét, sửa đổi, bổ sung dần để hoàn thiện các quy định của luật cạnh tranh. Lấy
ngay hệ thống pháp luật cạnh tranh của Mỹ, một hệ thống luật được xem là rất tiến
bộ trên thế giới, làm ví dụ. Ở Mỹ, tỷ lệ giải
quyết các vụ việc cạnh tranh liên quan đến gièm pha doanh nghiệp khá lớn, tuy
nhiên việc chứng minh thiệt hại cũng là một thách thức đối với doanh nghiệp bị
vi phạm. Xin dẫn chiếu một vụ án gần đây tại Mỹ mà bản án của Tòa án được xem
là án lệ có tính bước ngoặt về cách chứng minh thiệt hại của doanh nghiệp bị
gièm pha, mặc dù trước đó đã có nhiều vụ án tương tự, và đã có nhiều phán quyết
của Tòa án.
Công ty E
là công ty chuyên sản xuất miếng lót bảo vệ hông tránh bị trật hoặc gãy khi bị
té. Sản phẩm này đã bị Bác sĩ F tiến hành các thí nghiệm trên các miếng bảo vệ
hông và đăng thông tin rằng những thiết bị này không có tác dụng trong y tế.
Công ty E đã khởi kiện Bác sĩ F về hành vi gièm pha nêu trên bởi hành vi này đã
dẫn đến thiệt hại về uy tín và doanh thu cho Công ty E. Đáng tiếc rằng, trong
quá trình giải quyết vụ việc, Công ty E lại không thể liên hệ giữa việc bị mất
doanh thu và các khách hàng cụ thể đã ngưng sử dụng sản phẩm của họ xuất phát từ
việc gièm pha của Bác sĩ F. Vì vậy, bản án sơ thẩm đã tuyên Công ty E thua kiện.
Sau đó Công ty E đã kháng cáo lên Tòa án Tối cao, mặc dù Tòa án Tối cao không
thay đổi bản án nhưng vẫn đưa ra một ngoại lệ gọi là “loan tin rộng rãi”. Ngoại
lệ này áp dụng khi một bên đã thông báo thông tin gièm pha một cách rộng rãi và
bên bị vi phạm không thể xác định các khách hàng cụ thể không mua sản phẩm hoặc
dịch vụ của công ty mình[4]. Trong
trường hợp này, phía công ty bị gièm pha chỉ phải chứng minh có mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại mà không cần phải xác định cụ thể mức
thiệt hại hoặc doanh thu bị giảm, hay nói cách khác, doanh nghiệp có thể viện dẫn
khái niệm “loan tin rộng rãi” kết hợp với việc chứng minh có mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi gièm pha và thiệt hại. Đây được coi là một bước tiến mới làm
cơ sở trong việc giải quyết các hành vi gièm pha doanh nghiệp mà các nước có thể
tham khảo, đặc biệt là Việt Nam.
[1] Điều 58.2 Luật cạnh tranh 2004, Điều 46.2
Nghị định 116/2005/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật cạnh tranh
[2] Điều 31 và Điều 28.4 Nghị định
71/2014/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.
[3] Theo quy định tại Điều 179 Bô Luật tố tụng dân
sự 2005 thì thời hạn để đưa vụ án ra xét xử thông thường
kéo dài từ 4 đến 6 tháng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét